Tiền kỹ thuật số tái thiết hệ thống tài chính quốc tế

Bài viết này được dịch máy
Xem bản gốc

Gần đây, Hoa Kỳ đã công bố sẽ mạnh mẽ ủng hộ sự phát triển của tiền điện tử và tài sản kỹ thuật số, đồng thời tuyên bố sẽ xây dựng chiến lược dự trữ Bitcoin quốc gia. Động thái chính sách này đã kích thích đáng kể cuộc thảo luận và không gian tưởng tượng về tiền kỹ thuật số trên toàn cầu. Tiền kỹ thuật số là một hình thức tiền tệ mới, tồn tại dưới dạng kỹ thuật số, dựa trên công nghệ mã hóa và sổ cái phân tán, có các đặc điểm như phi tập trung, có thể truy vết, không thể thay đổi, có thể được sử dụng để giao dịch và lưu trữ giá trị, bao gồm cả tiền kỹ thuật số pháp định và tiền kỹ thuật số ảo. Sự phát triển nhanh chóng của nó không chỉ cung cấp một hình thức tiền tệ và loại tài sản mới, mà còn có thể tạo ra ảnh hưởng đáng kể đối với việc tái cấu trúc hệ thống tài chính quốc tế.

Ba loại tiền kỹ thuật số và đặc điểm của chúng

Hiện nay, có ba loại tiền kỹ thuật số chính trên toàn cầu, bao gồm tiền điện tử đại diện bởi Bitcoin, stablecoin đại diện bởi USDT và USDC, và Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (CBDC) đại diện bởi e-CNY. Ba loại tiền kỹ thuật số này đều có những đặc điểm riêng.

Giá trị của tiền điện tử không được quyết định bởi tín dụng chủ quyền của quốc gia, cũng không được quyết định bởi các loại tiền tệ hoặc tài sản tài chính khác mà nó liên kết, mà được quyết định bởi một hệ thống thuật toán máy tính chặt chẽ. Ví dụ, Bitcoin được quyết định dựa trên một bộ thuật toán máy tính, cần được "khai thác" bằng các máy tính có tỷ lệ băm mạnh. Tổng số Bitcoin là cố định, được thiết lập bởi thuật toán là 21 triệu đơn vị. Hiện tại, khoảng 19,8 triệu Bitcoin đã lưu thông trên thị trường, nghĩa là chỉ còn khoảng 100.000 Bitcoin chưa được "khai thác". Đặc điểm quan trọng nhất của Bitcoin là tính phi tập trung, không liên kết với tín dụng của bất kỳ quốc gia nào. Cùng với việc tổng số lượng cố định, điều này tương tự như vàng, có thể khắc phục xu hướng lạm phát của bất kỳ Ngân hàng Trung ương nào, vì vậy được cho là có thể phòng ngừa rủi ro tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của Bitcoin là giá cả biến động mạnh. Giá của một Bitcoin đã từng đạt trên 100.000 USD, nhưng đến đầu tháng 3/2023 đã giảm xuống khoảng 86.000 USD.

Giá trị của stablecoin được quyết định bởi tiền tệ hoặc tài sản tài chính mà nó liên kết. Hiện nay, hai loại stablecoin phổ biến nhất trên thị trường là USDT và USDC, chiếm khoảng 90% tổng giá trị thị trường stablecoin toàn cầu. Như tên gọi, USDT và USDC đều được neo giá theo tỷ lệ 1:1 với đô la Mỹ, vì vậy còn được gọi là stablecoin đô la Mỹ. Ngoài ra, cũng có các stablecoin neo giá với Euro, vàng, tiền điện tử, hoặc một rổ hàng hóa. Để phát hành một đơn vị stablecoin, cần phải có một lượng tiền tệ hoặc tài sản tài chính cố định làm tài sản đảm bảo. Do đó, so với tiền điện tử có biến động giá lớn, giá của stablecoin ổn định hơn nhiều.

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (CBDC) là loại tiền kỹ thuật số do Ngân hàng Trung ương của một quốc gia cụ thể phát hành, được hậu thuẫn bởi tín dụng chủ quyền của quốc gia đó và neo giá theo tỷ lệ 1:1 với tiền pháp định thông thường của quốc gia đó. Lợi thế lớn nhất của CBDC là do được phát hành bởi Ngân hàng Trung ương, nên khi giá trị có biến động lớn, có thể được hỗ trợ bởi chức năng cho vay cuối cùng của Ngân hàng Trung ương, do đó rủi ro tài chính rất thấp. Tuy nhiên, uy tín của CBDC cũng phụ thuộc vào tiền pháp định thông thường của quốc gia đó. Nếu tiền pháp định của quốc gia có biến động tỷ giá lớn hoặc mất giá nhanh, thì CBDC của quốc gia đó cũng sẽ kém hấp dẫn.

Ảnh hưởng của Bitcoin đối với hệ thống tài chính quốc tế

Mặc dù Bitcoin là một loại tiền kỹ thuật số, nhưng do có hai đặc điểm sau, nên nó không thực sự đảm nhiệm được chức năng của tiền tệ. Một mặt, giá Bitcoin biến động mạnh, điều này khiến Bitcoin rất khó có thể làm thước đo giá trị cho các hàng hóa khác và làm phương tiện trao đổi giữa các hàng hóa. Mặt khác, do tổng lượng Bitcoin có hạn, nên Bitcoin khó có thể điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Trong điều kiện bình thường, khi tổng sản lượng kinh tế tăng, Ngân hàng Trung ương sẽ liên tục phát hành tiền mới để đáp ứng nhu cầu, nên tổng lượng tiền pháp định thường sẽ tăng liên tục.

Do đó, bản chất của Bitcoin không phải là một loại tiền tệ thực sự, mà là một loại tài sản tài chính đặc biệt, có giá trị đầu tư riêng. Liệu Bitcoin có phải là tài sản rủi ro hay tài sản phòng ngừa rủi ro vẫn còn nhiều tranh cãi trên thị trường. Xét về mức độ biến động giá lớn của Bitcoin, nó giống như một tài sản rủi ro. Nhưng xét về việc giá Bitcoin có xu hướng nghịch đảo với tỷ giá đô la Mỹ, nó lại giống như một tài sản phòng ngừa rủi ro có thể phòng ngừa biến động tỷ giá đô la Mỹ.

Ảnh hưởng của stablecoin đối với hệ thống tài chính quốc tế

Trong ba loại tiền kỹ thuật số, thực ra stablecoin mới là loại có thể gây ra tác động lớn nhất đối với hệ thống tài chính quốc tế. Như đã nói, do stablecoin liên kết với tiền pháp định, nên gián tiếp mang tính chất của tiền pháp định. Đặc biệt, stablecoin đô la Mỹ còn mang các đặc tính liên quan đến đô la Mỹ, tổng thể tỷ giá tương đối ổn định, do đó dễ được các nhà đầu tư chấp nhận hơn.

Trong những năm gần đây, giá trị thị trường toàn cầu của stablecoin đã phát triển nhanh chóng, đến cuối năm 2024 đã gần 180 tỷ USD. Hiện nay, stablecoin đang "chiếm lĩnh" một số lĩnh vực sau: Thứ nhất, stablecoin đô la Mỹ đã bắt đầu trở thành phương tiện giao dịch trong thị trường tiền điện tử.换言之, khi giao dịch giữa các loại tiền điện tử như Bitcoin, Ethereum và các loại tiền tệ khác, các bên giao dịch ngày càng xu hướng sử dụng stablecoin đô la Mỹ để thanh toán. Điều này có nghĩa là trong thế giới ảo, stablecoin đô la Mỹ đã bắt đầu đảm nhận vai trò của đô la Mỹ. Thứ hai, trong hệ thống tài chính phi tập trung (DeFi), một số tổ chức đã bắt đầu sử dụng stablecoin đô la Mỹ để cung cấp hỗ trợ thanh khoản. Ví dụ, khi các chủ thể liên quan cần vay vốn, có thể trực tiếp yêu cầu vay stablecoin đô la Mỹ từ các tổ chức cụ thể. Thứ ba, ở một số quốc gia đang phát triển, nơi sức mua và tỷ giá của tiền pháp định trong nước biến động lớn, người dân và doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng stablecoin đô la Mỹ như một loại tiền tệ quốc tế đáng tin cậy để lưu trữ tài sản, stablecoin đô la Mỹ thậm chí đã bắt đầu thay thế tiền pháp định trong nước ở một mức độ nhất định.

Stablecoin đô la Mỹ vừa tăng cường liên kết giữa lĩnh vực lưu thông tiền tệ truyền thống và lĩnh vực lưu thông tiền tệ trong thế giới ảo, vừa bù đắp khoảng trống nhu cầu đô la Mỹ của các hộ gia đình và doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, do đó loại tiền kỹ thuật số này có thể sẽ tăng cường vị thế quốc tế của đô la Mỹ. Nếu stablecoin đô la Mỹ càng gắn kết chặt chẽ tín dụng quốc tế của đô la Mỹ với các ứng dụng trong thế giới ảo, thì có thể sẽ củng cố rất lớn ưu thế của đô la Mỹ.

Ảnh hưởng của Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương đối với hệ thống tài chính quốc tế

Thực chất, Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (CBDC) chính là tiền pháp định trong thế giới ảo, loại tiền tệ này có uy tín mạnh hơn và rủi ro thấp hơn, nhưng cuối cùng vẫn phụ thuộc vào sức cạnh tranh của tiền pháp định thực tế của quốc gia đó. Tất nhiên, mức độ CBDC được sử dụng cũng là một vấn đề quan trọng. Ví dụ, nhân dân tệ được công nhận là một loại tiền tệ chủ quyền có giá trị ổn định trên toàn cầu. Tuy nhiên, cho đến nay, e-CNY chỉ có thể được sử dụng trong các giao dịch bán lẻ, tức là giao dịch giữa cá nhân và doanh nghiệp, e-CNY hiện chỉ có thể thay thế tiền mặt (M0). Do hạn chế này, các giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với tổ chức tài chính, và giữa các tổ chức tài chính hiện vẫn chưa áp dụng được e-CNY. Điều này có nghĩa là hiện nay, yếu tố hạn chế chính sự phát triển của e-CNY là phạm vi sử dụng. Và lý do Ngân hàng Trung ương Trung

Chiến lược ứng phó

Hiện nay, trên toàn cầu, các loại tiền kỹ thuật số bao gồm , và , mỗi loại đều có ưu và nhược điểm, triển vọng phát triển và hướng ứng dụng riêng. Tốt nhất không nên chỉ đặt cược vào một phía, mà nên đa dạng hóa, cùng lúc đầu tư vào cả ba, để tối đa hóa lợi nhuận từ sự phát triển của tiền kỹ thuật số hoặc tài sản kỹ thuật số. Một mặt, cần mở rộng phạm vi thay thế của từ M0 (tiền mặt) sang M1 (tiền mặt cộng với tiền gửi thanh toán) thậm chí M2 (tiền mặt cộng với tất cả các khoản tiền gửi). Chỉ khi nâng cấp phạm vi thay thế của từ M0 lên M1 thậm chí M2, mới có thể mở rộng toàn diện các ứng dụng của , thúc đẩy việc sử dụng trong nước và quốc tế, hỗ trợ quốc tế hóa . Mặt khác, cần thúc đẩy xây dựng của Trung Quốc. Mở rộng việc sử dụng kỹ thuật số trên các nền tảng internet, kết hợp tốt hơn chủ quyền tín dụng của với các ứng dụng toàn cầu của các nền tảng Trung Quốc. Miễn là thiết kế và kiểm soát rủi ro phù hợp, mở rộng việc sử dụng kỹ thuật số trên các nền tảng này sẽ có thể mở rộng đáng kể vị thế tiền tệ quốc tế của , từ đó ứng phó tốt hơn với thách thức từ ổn định. Ngoài ra, tại cấp Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), có thể khuyến khích thử nghiệm và thúc đẩy việc sử dụng . là một loại tiền tệ siêu chủ quyền do IMF tạo ra, neo vào một rổ gồm , , , và , hiện tại tỷ trọng của 5 loại tiền tệ này lần lượt là 41,73%, 30,93%, 10,92%, 8,33% và 8,09%. Hiện tại, chỉ có thể được sử dụng trong các giao dịch giữa IMF và các quốc gia thành viên, cũng như giữa các quốc gia thành viên với nhau. Sự phát triển đa dạng của các loại sẽ tốt hơn so với việc độc chiếm lĩnh vực phát triển . có thể mở rộng việc sử dụng tiền tệ dự trữ siêu chủ quyền trong lĩnh vực kỹ thuật số và không gian ảo, đồng thời cũng có lợi cho việc đa dạng hóa hệ thống tiền tệ quốc tế.

Nguồn
Tuyên bố từ chối trách nhiệm: Nội dung trên chỉ là ý kiến của tác giả, không đại diện cho bất kỳ lập trường nào của Followin, không nhằm mục đích và sẽ không được hiểu hay hiểu là lời khuyên đầu tư từ Followin.
Thích
Thêm vào Yêu thích
Bình luận